Trang 1 trong tổng số 1 trang
Chính sách đào tạo sử dụng quan lại thời Lê Thánh Tông và công tác cán bộ hiện nay
Tác giả: Nguyễn Hoài Văn - Đặng Duy Thìn
Nhà xuất bản: Chính trị Quốc gia
Năm xuất bản: 2012
1. Đôi nét về vua Lê Thánh Tông
Vua Lê Thánh Tông vốn tên gọi là Lê Tư Thành, là con thứ 4 của vua Lê Thái Tông (1423-1442) và bà tiệp dư Ngô Thị Ngọc Dao. Khi bà tiệp dư Ngô Thị Ngọc Dao có thai Lê Tư Thành, bà đã bị bà phi Nguyễn Thị Anh mưu hại. Nguyễn Trãi và người thứ thiếp là Nguyễn Thị Lộ đã cứu giúp Ngọc Dao và đưa đi lánh nạn. Lê Tư Thành được sinh ra ngày 20 tháng 7 năm Nhâm Tuất (1442), ở chùa Huy Văn (ngày nay thuộc quận Đống Đa, Hà Nội).
Lê Tư Thành vốn không phải là người sẽ kế vị, theo chính danh. Từ nhỏ, ông được giáo dục ở Quốc Tử Giám, giống như người anh cùng cha khác mẹ là Lê Nhân Tông (Lê Bang Cơ - con bà Nguyễn Thị Anh) đang làm vua Đại Việt.
Năm 1459, người anh cả cùng cha khác mẹ của Nhân Tông là Lê Nghi Dân tiến hành đảo chính và sát hại Lê Nhân Tông. Nghi Dân lên ngôi. Tư Thành không bị vua anh sát hại trong vụ này mà được cải phong làm Gia vương.
Chín tháng sau, một cuộc đảo chính thứ hai do Nguyễn Xí và Đinh Liệt cầm đầu lật đổ và giáng Lê Nghi Dân xuống tước hầu. Ban đầu, các đại thần định mời anh thứ hai của Tư Thành là Cung vương Lê Khắc Xương (em Nghi Dân, anh Bang Cơ) lên ngôi nhưng Khắc Xương từ chối không muốn nhận ngôi báu. Họ đề nghị Lê Tư Thành ra làm vua và ông đã chấp thuận. Ngày 08 tháng 6, năm Canh Thìn 1460, Lê Tư Thành lên ngôi, tức là vua Lê Thánh Tông, lấy niên hiệu là Quang Thuận. Năm đó, ông chỉ mới 18 tuổi.
Trong giai đoạn cai trị đất nước, Lê Thánh Tông đã đạt được những thành tựu rực rỡ trong xây dựng và phát triển đất nước, được xem là đỉnh cao sự phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam. Với thời gian 38 năm trị vì, Lê Thánh Tông đã đưa nước Đại Việt trở thành một quốc gia hùng cường trong khu vực Đông Nam Á lúc bấy giờ cả về mặt kinh tế, chính trị và văn hoá – xã hội. Nhà nước Đại Việt được củng cố vững chắc, thống nhất theo mô hình Nhà nước quân chủ Trung ương tập quyền và thực hiện việc cai trị đất nước, quản lý xã hội bằng pháp luật. Gắn liền với việc xây dựng, củng cố thể chế chính trị quân chủ Trung ương tập quyền tuyệt đối theo hệ tư tưởng Nho giáo, các lĩnh vực cải cách kinh tế quân sự, hành chính, luật pháp đều được thực thi triệt để và đem lại những thành tựu to lớn.
Vua Lê Thánh Tông đặc biệt dành sự quan tâm xây dựng con người chính trị, trọng tâm là vấn đề đào tạo và sử dụng quan lại. Vì vậy, đội ngũ quan chức triều đình cũng như quan lại địa phương đã được tăng cường về số lượng, nâng cao chất lượng cả về trình độ, đạo đức và năng lực, đáp ứng kịp thời đòi hỏi sự phát triển của đất nước. Chính sách đào tạo và sử dụng quan lại thời Lê Thánh Tông trở thành “khuôn phép”, hay “chế độ” như các sử gia phong kiến đã đánh giá để các triều đại sau đó noi theo, xem như mẫu mực cho việc tổ chức và xây dựng bộ máy nhà nước vững mạnh.
2. Những yêu cầu đặt ra với việc xây dựng đội ngũ quan lại
Trong buổi đầu, chính quyền nhà Lê về cơ bản vẫn phỏng theo tổ chức chính quyền của các triều đại trước. Trải qua nhiều lần sửa đổi và chấn chỉnh, đến thời Lê Thánh Tông, thông qua cuộc cải cách được đẩy mạnh năm 1471 và Quốc triều hình luật ban hành năm 1483, bộ máy nhà nước phong kiến Trung ương tập quyền đã đạt đến giai đoạn phát triển cao nhất của mô hình Nho giáo. Hệ thống các cơ quan trong bộ máy quyền lực nhà nước được “xếp đặt phân minh, phân công rõ ràng, không dẫm đạp lên nhau”. Ngoài việc lập ra các cơ quan điều hành là sáu bộ, sáu tự, Lê Thánh Tông còn lập ra một mạng lưới các cơ quan kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức, cá nhân nắm quyền lực là sáu khoa và Ngự sử đài.
Cả bộ máy triều đình đều đặt dưới quyền điều khiển trực tiếp của nhà vua, khuynh hướng tăng cường sự chi phối của Triều đình và hạn chế quyền lực địa phương được thể hiện rõ nét, coi trọng sự phân chia và kiểm soát lẫn nhau giữa hệ thống hành chính, quân sự, tư pháp và giám sát. Nhờ đó mà Lê Thánh Tông đã thâu tóm được quyền hành, tạo ra một hệ thống hành chính phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội và dân trí đương thời. Để đáp ứng yêu cầu vận hành của bộ máy nhà nước sau cải cách gắn liền với thực thi theo pháp luật, việc quản lý xã hội đòi hỏi phải có một đội ngũ quan lại có kiến thức, có văn hoá, hiểu biết về pháp luật, có phẩm chất đạo đức… Đó chính là những tiêu chuẩn của quan lại nhà nước mà Lê Thánh Tông muốn hướng tới. Dưới đây là những nội dung cụ thể trong chính sách đào tạo sử dụng quan lại của triều đình lúc ấy.
3. Chuẩn hóa, nâng cao chất lượng đội ngũ quan lại theo những tiêu chí cụ thể
a. Có văn hoá, tri thức cai trị theo tư tưởng Nho giáo
Là người tiếp thu Nho giáo một cách cơ bản từ nhỏ nên sau khi lên ngôi vua, từ những bài học kinh nghiệm lịch sử của các triều trước và của các bậc cha ông để lại, Lê Thánh Tông chủ trương và kiên quyết dùng Nho giáo để thống nhất về mặt tư tưởng trong phạm vi cả nước, đưa nó lên địa vị độc tôn và ngự trị trong các thể chế của Nhà nước. Ông triệt để khai thác ở Nho giáo những nhân tố cần thiết để ổn định tình hình chính trị lúc bấy giờ, thể hiện rõ nét ở các bài văn sách đình đối - một hình thức thi đặc biệt bằng sự “đối thoại” giữa vua và “sĩ tử” về các vấn đề tư tưởng và những vấn đề chính trị - xã hội quan trọng nhất của đất nước. Văn sách đình đối của Bảng nhãn Nguyễn Đức Trinh (khoa thi năm Quý Mùi 1463) đã làm rõ chủ trương của Lê Thánh Tông trong vấn đề dùng Nho thuật để cai trị thiên hạ: “Điều cốt yếu của việc trị nước là ở làm sáng tỏ nền thánh học, lấy đó làm gốc cho việc chính nhân tâm trừ tà thuyết”.
Lê Thánh Tông đặt ra những quy định nghiêm ngặt, đòi hỏi cao về học vấn, người làm quan phải có tri thức và chủ trương lấy trình độ học vấn làm cơ sở để tuyển chọn quan lại. Vì vậy, họ phải được đào tạo cơ bản, học hành đầy đủ thông qua giáo dục và thi cử Nho học để từng bước tri thức hoá, văn hoá hoá đội ngũ quan lại. Đã qua rồi thời các quan “mù tịt, dốt đặc, xiểm nịnh”, thời đại mới với một bộ máy hành chính nhà nước được tổ chức khoa học và phân minh hơn từng bước được thiết lập sẽ cần đến một đội ngũ quan lại tương xứng “có học thức vững chắc và trung thành với dòng họ bằng trí tuệ và đạo đức trong công việc”.
b. Hiểu biết pháp luật và có ý thức chấp hành pháp luật
Song song với việc ban hành các văn bản luật, xác lập lòng tin yêu của dân chúng với nhà cầm quyền, Lê Thánh Tông chủ trương xây dựng đội ngũ quan lại - những người thay mặt vua và được giao cho việc thi hành pháp luật tức là nhiệm vụ cai trị đất nước phải thông thạo pháp luật. Ông cho rằng, những người nắm pháp luật, thường là những người cầm cân nảy mực, vì vậy bản thân họ phải có kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm nhất định để vận dụng pháp luật cho đúng. Đồng thời họ phải tuân thủ chặt chẽ những thể chế, những quy định của pháp luật thì mới đảm bảo cho pháp luật có giá trị tối cao trong hoạt động của nhà nước. Điều đó sẽ ngăn chặn được sự lạm quyền, sử dụng quyền lực một cách tuỳ tiện ở các cấp chính quyền, nhằm làm trong sạch, vững mạnh bộ máy nhà nước.
Quan lại có hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân đều bị trừng phạt nghiêm khắc và được quy định cụ thể trong Quốc triều hình luật. Theo đó, tại Điều 185, quan lại làm công vụ sách nhiễu dân bị tội xuy đến biếm một tư; Điều 632 quy định: “Các quan cai quản quân dân các hạt, vô cớ mà đi đến những làng, xã trong hạt, hay là cho vợ cả vợ lẽ, người nhà đi lại, mượn việc mua bán làm cớ, để quấy nhiễu nhân dân, lấy của biếu xén, thì xử tội biếm hay bãi chức” hoặc theo các điều 636, 638, 639, nếu quan lại tự tiện bắt dân phục dịch, hoặc vay mượn của dân hay cho dân vay để lấy lãi cao, hoặc tự tiện lấy của dân để làm việc riêng thì đều phải bồi thường và chịu hình phạt theo pháp luật.
c. Tận trung với vua và triều đình, tận tụy với công việc được giao
Theo tư tưởng chính trị Nho giáo, là bề tôi, quan lại phải tận trung với vua, tận trung với triều đình trong mối quan hệ hàng đầu là “vua - tôi”. Quốc triều hình luật đã thể hiện rõ nét nguyên tắc bảo vệ và củng cố vương quyền, chế độ quân chủ quan liêu, trật tự “đẳng cấp” phong kiến, mọi hành vi xâm phạm đến lợi ích, sự an toàn và sự “bình yên” của vua và hoàng tộc, của thể chế đều bị trừng trị nghiêm khắc. Trong “thập ác” (mười tội nặng phải chết) thì có năm tội xâm phạm đến vua và hoàng tộc.
Trong Quốc triều hình luật có nhiều quy định đòi hỏi sự siêng năng của đội ngũ quan lại và đưa ra những hình phạt nghiêm khắc đối với quan lại không chuyên cần với công việc được giao như: “Các quan đang tại chức mà trễ nhác việc công thì bị phạt 70 trượng, biếm ba tư và bãi chức” (Điều 199), hay ở Điều 222 “Những quan chức được sai làm việc công, thấy việc nặng nề khó khăn mà nói dối là đau ốm để khỏi phải đi thì bị biếm hay bị đồ; nếu là việc quân khẩn cấp mà trốn tránh thì xử tội lưu hay tội chết”. Theo sắc chỉ năm 1479 thì “các quan viên lười biếng, bỉ ổi, đê tiện, yếu hèn, nếu là con cháu công thần thì bãi chức bắt về làm dân, nếu là con cháu thường dân thì bãi chức sung quân”. Năm 1491, Lê Thánh Tông định lệ “Quan lại ở Hình bộ người nào mắc tội lười biếng, gian tham, buông tuồng, phóng túng thì làm bản tâu lên theo luật mà trị tội”. Ngoài ra, để khuyến khích, động viên sự làm việc chăm chỉ của quan lại, Điều 3 của Quốc triều hình luật nêu rõ “nghị cần, là những người cần cù, chăm chỉ” thuộc một trong tám đối tượng được xem xét giảm hình phạt khi những người này phạm tội.
Triều đình luôn nhấn mạnh tinh thần trách nhiệm của quan lại đối với công việc được giao. Quốc triều hình luật, tại Điều 284 đã nhấn mạnh trách nhiệm quan lại chăm lo cuộc sống của dân “nếu không biết làm việc lợi, trừ việc hại, để dân trăm họ phải phiêu bạt đi nơi khác, hộ khẩu bị hao hụt và có trộm cướp tụ họp ở trong hạt, thì xử tội bãi chức hay tội đồ”, Điều 220 nêu rõ khi có chiếu lệnh của Triều đình ban xuống thì các quan ty phải có trách nhiệm sao lục niêm yết ra để biểu thị cho quân dân biết rõ đức ý của vua, nếu “coi thường chiếu lệnh ấy là lời hão thì bị phạt, bị biếm hay bị bãi chức” hoặc Điều 294 quy định về việc chăm sóc những người “đau ốm mà không ai nuôi nấng”, lang thang cơ nhỡ.
d. Tấm gương sáng về đạo đức
Trong chế độ quân chủ, quan lại được coi là bậc “phụ mẫu chi dân” (cha mẹ dân). Vua Lê Thánh Tông có thái độ nghiêm khắc đối với một số người tuy có công tích, đỗ đạt nhưng xu nịnh, nói bừa hoặc kiêu căng, thiếu nhân cách. Ví dụ, năm 1469, khi biết quan chỉ huy Phạm Phổ định nhờ vả người khác đưa con gái vào trong cung để lo “củng cố quyền vị”, Vua dụ các quan trong triều rằng, Phạm Phổ là “tặc thần của nhà nước”, do đó bãi chức.
Quan thanh liêm sẽ đảm bảo cho bộ máy nhà nước luôn trong sạch. Vì thế, Lê Thánh Tông yêu cầu quan lại phải liêm khiết, công bằng. Năm 1460, nhà Vua chê Thái bảo Lê Lăng “người nào mình không bằng lòng thì đẩy xuống đất đen, người nào chiều ý mình thì nâng niu trên gối”, khuyên “nên thận trọng từ đầu đến cuối, phải thanh liêm công bằng”. Quốc triều hình luật đã ấn định phẩm chất liêm khiết của quan lại thể hiện trong rất nhiều điều luật mà ở đó bao gồm những biện pháp trừng trị quan lại có hành vi lợi dụng chức vụ của mình để mưu lợi ích riêng như: “những vị quan coi việc chở đồ vật công mà chở lẫn đồ vật riêng để buôn bán thì xử tội đồ” (Điều 224) “quan ty làm trái luật mà ăn hối lộ” thì bị xử tội biếm hay bãi chức, có thể bị xử tội đồ hay lưu thậm chí là xử tội chém tùy theo mức độ nặng nhẹ (Điều 138). Bộ luật cũng có các Điều 300, 370 quy định cấm và phạt việc “quan ty ở trấn ngoài cùng các tướng hiệu, mà tự tiện thu tiền của quân dân để làm lễ vật cung phụng lên vua” hay “các nhà quyền quý chiếm đoạt nhà cửa ruộng đất ao đầm của lương dân” từ tội biếm trở lên. Năm 1466, Lê Thánh Tông có lệnh “cấm các quan chuyển đổi đi nơi khác không được dỡ lấy các thứ đồ dùng ở công sở”.
Có thể nói, thể chế chính trị cũng như đội ngũ quan lại mà Lê Thái Tổ xây dựng và được duy trì trong hơn 30 năm bộc lộ nhiều bất cập và ngày càng không còn phù hợp. Nhà nước thời Lê Thánh Tông cần một đội ngũ quan lại mới thay thế cho thế hệ cũ cả về số lượng và chất lượng nhằm đáp ứng được yêu cầu của thời cuộc đang đặt ra. Điều đó cũng có nghĩa là, thực tiễn đòi hỏi ngày càng nhiều nhân sự theo kiểu mới với những tiêu chuẩn và cách thức tuyển dụng mới, được đào tạo và sử dụng một cách hệ thống, chính quy, bài bản và nề nếp.
4. Chính sách đào tạo quan lại
Phải đến thời Lê Thánh Tông, chế độ khoa cử Nho học mới được mở rộng, phát triển mạnh mẽ và đi vào nền nếp với theo phương châm coi việc thi cử là hàng đầu để “chọn người có học”, “chọn kẻ sĩ”, trong đó chủ yếu là chọn người đảm nhiệm công việc chính trị, ngoại giao.
Sự phát triển của giáo dục, thi cử là điều kiện thuận lợi để Lê Thánh Tông lấy trình độ học vấn làm cơ sở để tuyển chọn quan lại. Đại đa số giới chức quan liêu trong bộ máy nhà nước xuất thân từ khoa cử, là những người đỗ đạt qua các kỳ thi nghiêm ngặt, dù họ thuộc thành phần xã hội nào (trừ người thuộc diện cấm thi). Trong nhiều chỉ dụ, lệnh của nhà Vua về việc tiến cử, bảo cử, tuyển chọn vào các chức vụ, vị trí ở Trung ương cũng như địa phương, tuỳ vị trí cụ thể mà đặt ra tiêu chuẩn là tiến sĩ hoặc đã thi đỗ một số khoa thi nhất định. Đối với cấp huyện, "khuyết chức chính quan nếu không có người khoa mục thì cho lấy người thi đỗ tam trường mà thuyên bổ”. Thậm chí đến xã trưởng – tuy không phải là một chức quan triều đình – song việc lựa chọn cũng dựa trên tiêu chí căn bản là có học, còn “nếu không biết chữ thì cho nghỉ”. Lê Thánh Tông mong muốn tạo được một đội ngũ quan lại gồm những người ưu tú trong giới trí thức Nho học, được chọn lựa kỹ càng làm chỗ dựa vững chắc cho triều đình, bởi vậy, trong buổi “lễ ăn thề” với thượng thư các bộ vào mùa đông năm Quang Thuận thứ 4 (1463), ông dẫn lại lời của Tư Mã Quang: “Người quân tử là cội gốc để tiến lên việc trị bình, kẻ tiểu nhân là thềm bậc để đi đến họa loạn”, cho nên: “Ta và các ngươi đã thề với trời đất dùng người quân tử, bỏ kẻ tiểu nhân, ngày đêm chăm chắm không lơi”.
5. Chính sách sử dụng quan lại
a. Tuyển dụng quan lại cho bộ máy nhà nước
Hai đối tượng chính mà Nhà nước thời Lê Thánh Tông tuyển dụng gồm những người chưa bao giờ làm quan và những người đang làm quan nhưng cần thăng giáng, thuyên chuyển hoặc phải “đào tạo lại”. Đối tượng thứ nhất gọi là phép “tuyển bổ”, đối tượng thứ hai gọi là phép “chọn bổ”.
- Những người chưa từng làm quan chủ yếu bao gồm những sĩ tử đậu đạt, tức là những người được đào tạo bằng con đường học hành, thi cử. Đối tượng này được ưu tiên hàng đầu khi tuyển dụng. Song song với việc tổ chức thi cử chính qui, cao cấp để tuyển dụng quan lại theo con đường chính thống học hành – thi cử - đỗ đạt - làm quan, Triều đình cũng đã có những hình thức thi cử không thường xuyên để nhằm vào các đối tượng có học hành nhưng chưa được đỗ đạt để tuyển dụng các viên chức nhà nước.
- Những người đang làm quan, tức là “tuyển dụng lại” những người đã được tuyển dụng; đó chính là đội ngũ quan liêu ngày càng đông đảo trong bộ máy chính quyền các cấp.
Đến thời Lê Thánh Tông, những kỳ thi tuyển đi dần vào quỹ đạo chính quy, chính thống cùng một lúc với sự phát triển giáo dục khoa cử theo qui trình hai bước là bước một - học và bước hai - thi. Học ở đây là Nho học, tức là Nho giáo và thi cũng là thi Nho học, khoa cử Nho học. Do đó “hiền tài” qua việc học - thi mà được tuyển dụng vào bộ máy nhà nước cũng được hình thành theo quan niệm Nho giáo như câu văn do Hiển cung đại phu, Hàn lâm viện thị giảng, Đông các hiệu thư Đào Cử vâng sắc soạn vào năm 1484 ở Bài ký đề danh tiến sĩ khoa Quí Mùi (1463): “Phép trị nước phải lấy việc cử người tài, dùng người hiền làm gốc vậy”. Trong trường hợp tách hiền và tài ra để nói cho cụ thể thì hiền chính là phẩm chất đạo đức cần thiết của người làm quan: “tận trung với nước”, “để ơn cho dân”, “đạo ngay nghĩa thẳng”, “giữ đức lập công”, chính là sự gương mẫu, theo đúng lời dạy của thánh hiền trong các mối quan hệ giữa con người và xã hội, đối với vua, với nước, với dân chúng, trong công việc và đối với việc tu dưỡng của chính mình; còn tài là năng lực làm tròn trách nhiệm được giao của người làm quan, là kết quả của công việc đó đối với vua và dân chúng mà một số trường hợp cụ thể ở đây là “người ở chức thị tụng (hầu cận vua) thì nghĩ sao hiến dâng mưu hay, người nắm việc kỷ cương thì nghĩ sao khiến chính sự trong sạch, người cai trị địa phương thì lo sao cho rạng tỏ đức bề trên mà thấu đạt tình kẻ dưới, người giữ quyền chăn thì nghĩ sao cho đời dân no đủ gốc nước vững bền”.
Như vậy, có thể cụ thể hoá tiêu chuẩn hiền tài ở thời Lê Thánh Tông như sau: một là, có trình độ học vấn thể hiện trước và trong khi thi; hai là, có đạo đức tư cách trong suốt quá trình học tập, lúc đi thi (những người đi thi đều phải trải qua thể lệ bảo kết và thi khảo hạch tức là phải đủ tư cách) và khi làm quan; ba là, có năng lực làm việc trong thời gian tập sự cũng như suốt quá trình làm quan. Như vậy, trong thời gian từ đầu thời Lê Sơ đến triều đại Lê Thánh Tông đã có sự diễn tiến của tiêu chuẩn tuyển dụng từ “thân huân” tới “hiền tài” khá đặc sắc nhằm xây dựng đội ngũ quan lại đáp ứng được đòi hỏi của nền chính trị mới.
Các cách thức tuyển dụng:
Thứ nhất là, nhiệm tử (tập ấm) là định lệ của Nhà nước mà theo đó, một người dựa vào ân trạch của cha ông mà được bổ vào một chức quan nhất định. Theo tinh thần “trọng thị công thần”, khi một nhân thân, nhờ tiêu chí “thân huân” được tuyển dụng vào đội ngũ quan lại của Triều đình, nhất là các chức quan cao, thì con cháu người đó, nhờ được tín nhiệm về mặt lý lịch, cũng được “tập ấm”, được phong “ấm tước” mà trở thành quan. Đến thời Hồng Đức, lệ nhiệm tử không chỉ dừng lại ở con trưởng mà mở rộng ra cả các con thứ của quan viên, thậm chí các cháu của quan viên cũng được hưởng lệ này. Trường hợp viên quan nào có quyền tập ấm mà lại không có con trai thì được phép nuôi một người con của họ hàng thân thích làm thừa kế để hưởng tập ấm. Con cháu của những người có công đã chết có thể được ban thưởng, trọng dụng.
Chế độ tập ấm là thể hiện sự ưu đãi của Triều đình đối với con cháu các quan đại thần có công, có mặt tích cực là sử dụng được một số người có năng lực, song mặt hạn chế nổi trội hơn là hầu hết số người này không qua thi cử, chưa hẳn có tài, một số thường cậy mình là “con ông cháu cha”, không cố gắng trên đường quan trường, thậm chí làm liều, làm càn.
Thứ hai là, tiến cử và bảo cử: tiến cử thì lấy người tài, đức hơn hẳn mà không cứ thân phận. Hai là bảo cử thì lấy người danh vọng rạng rệt mà phải theo tư cách. Tiến cử là cách chọn nhân tài từ trong nhân dân, không căn cứ vào thân phận. Chế độ này cho phép một vị quan được đề nghị đưa một người có tài nhưng vì nhiều nguyên nhân mà chưa có điều kiện đi thi (hoặc thi không đỗ) được giữ một chức quan nào đó. Năm 1467, Lê Thánh Tông ra sắc chỉ “các nha môn chọn các lại viên xuất thân nho học để bổ các chức, đều cho quan phụ trách công bằng xem xét mà tiến cử” và “sai triều thần tiến cử chức quan huyện cương trực biết trị kẻ gian tà, mỗi người cử một viên”. Người tiến cử phải lấy tước vị, phẩm hàm của mình để đảm bảo rằng người được tiến cử là có tài, xứng đáng với chức vụ được giao và phải chịu trách nhiệm cá nhân về sự tiến cử đó. Nhà Vua quy định rõ ràng: “Lục bộ, Lục khoa và Ngự sử đài mà tiến cử bậy thì chịu tội giáng hay bãi chức. Nếu tiến cử được người giỏi thì nhất định sẽ được trọng thưởng”.
Bảo cử là hình thức chọn những quan lại có quá trình công tác tốt, có tài năng và có kinh nghiệm thực tiễn quan trường, mà bổ vào những chức vụ quan trọng ở các cơ quan Trung ương và địa phương. Theo đó, các quan đương chức có quyền và nghĩa vụ giới thiệu những người mà mình biết là có đủ phẩm chất và năng lực, nhưng không nhất thiết phải là công thần hoặc đỗ đạt đại khoa, để bổ sung vào những chức quan còn đang khiếm khuyết. Phương thức để cho một thân nhân được giới thiệu (bảo cử) ra làm quan như một cách thức tuyển dụng quan chức chính thức đã được áp dụng thường xuyên, trở thành nề nếp.
Phép bảo cử thời Lê Thánh Tông đã tỏ rõ được thiện ý của Triều đình trong việc tìm kiếm rộng rãi những người hiền tài tham gia vào bộ máy quản lý nhà nước. Tuy nhiên, trong một xã hội ngày càng phân biệt tôn ti đẳng cấp, nhất là khi giới quan lại câu nệ vào các tiêu chí công thần và đại khoa thì việc thực hiện lệ bảo cử tất phải bị nhiều hạn chế và thường thì chỉ bảo cử được những chức quan cấp thấp.
Thứ ba là khoa cử: Từ thời Lê Thánh Tông, chế độ khoa cử mới thực sự được phát triển, trở thành hình mẫu tiêu biểu cho các triều đại sau này tiếp tục thực hiện. Từ đây, khoa cử trở thành phương thức chủ yếu để Nhà nước tuyển lựa quan lại như khoa thi tiến sĩ năm 1463, được đánh giá là “trung hưng bậc nhất, lấy được nhiều người giỏi, xán lạn hơn đời trước. Nhiều người được dùng, la liệt trong kinh ngoài trấn. Người chấn hưng lễ nhạc, giữ việc văn tự, đông như cá nối đuôi, như ve liền cánh”. Có thể nói, sự phát triển giáo dục khoa cử đã tạo điều kiện thuận lợi để Lê Thánh Tông lấy trình độ học vấn làm cơ sở để tuyển chọn quan lại, sử dụng các tiến sĩ vào việc đảm nhiệm các vị trí khác nhau trong bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương.
Việc tuyển chọn quan lại bằng con đường khoa cử có ba ưu điểm lớn. Một là, tiêu chuẩn xét tuyển thống nhất trong phạm vi cả nước nên bảo đảm tính công khai, minh bạch, thúc đẩy việc tu dưỡng, phấn đấu của những người có chí hướng làm quan. Hai là, những người tham gia thi cử tương đối bình đẳng về cơ hội (trừ những người không đủ tiêu chuẩn về lý lịch và tư cách đạo đức). Ba là, tạo sự kết hợp giữa học tập, sách vở, thi cử và tham chính; thúc đẩy xã hội coi trọng giáo dục, văn hóa và tài năng cá nhân.
b. Sắp xếp, bố trí quan lại
Về sắp sếp theo trình độ bằng cấp: Nhà nước thời Lê Thánh Tông chủ trương và có nhiều quy định, biện pháp cụ thể để đưa tầng lớp nho sĩ vào nắm hệ thống quyền lực, thực hiện bổ nhiệm những người có khả năng vào các vị trí khác nhau trong bộ máy chính quyền nhằm coi trọng thực lực, phát huy sở trường, sở đoản của từng người. Đối với những người thi đỗ trong các kỳ thi hội, thi đình tức là có bằng tiến sĩ, Triều đình mới bảo cử trao cho quan chức; đây là lần trao chức đầu tiên trên con đường quan trường của họ.
Về chế độ tập sự (thử việc): Người có chức vụ không chính thức (thí chức), sau một thời gian thử việc nếu thấy được, không phạm lỗi gì thì được thăng cấp cho nhận chức chính thức (thực thụ). Đối với các viên quan tân tiến sĩ được nhận chức giám sát hoặc chức cấp sự trung thì sẽ làm thử trong một năm, sau đó xem xét nếu “có thể làm nổi việc thì cho lưu nhiệm, không làm nổi việc thì đổi bổ chức khác”. Đối với các chức quan văn, võ trong kinh (trung quan cũng thế), người nào mới được bổ thí chức thì chỉ được “cấp cho một phần ba tiền lương, con cháu vẫn như dân thường”, đến sau ba năm mà “xứng chức và không phạm lỗi gì” thì được thăng cấp cho thực thụ còn nếu “không xứng chức” thì đuổi về làm các hạng quân sắc cũ; đối với “giám sinh, nho sinh, học sinh, án lại, lại viên các nha môn thi hội đã trúng nhiều kỳ làm việc lâu năm, biết việc, siêng năng và có quân công” sau khi được trao các chức Tri huyện, Tri châu, Huyện thừa, Đồng tri châu, Thủ lĩnh, Tự ban thì phải “đủ 3 năm không phạm lỗi gì thì mới cho thực thụ”.
c. Thực hiện luật hồi tỵ trong sắp xếp, bố trí quan lại
Hồi tỵ là một từ Hán - Việt cổ, “hồi” là trở về, “tỵ” là lánh ra. Hồi tỵ nghĩa là tránh ra, hay lánh đi. Theo đó, những người có quan hệ huyết thống, đồng hương, thầy trò, bạn bè không được cùng làm quan hay làm việc ở một địa phương, công sở. Nội dung chính của “hồi tỵ” là: quan lại không được lấy vợ, kết làm thông gia với người ở nơi mình cai quản; không đưa quan lại về quê hương, bản quán nhậm trị; quan lại không được tậu đất, vườn, ruộng, nhà tại nơi cai quản; quan lại không được lấy người cùng quê làm người giúp việc; người có quan hệ thầy trò, bạn bè không được làm việc tại cùng một công sở. Nếu phát hiện được một trong những trường hợp trên thì phải tâu báo lên để thuyên chuyển những người thân thuộc đó đi các nơi khác nhau. Đây là một chính sách quản lý quan lại quan trọng với mục đích ngăn chặn tệ lợi dụng quan hệ thân tộc để gây bè, kéo cánh, thao túng quyền lực và tránh kiểu làm việc không khách quan, né tránh hoặc bao che, nâng đỡ cho nhau, gây ra nhiều tiêu cực trong bộ máy Nhà nước.
Đặc biệt, để tránh tạo lập sự liên kết giữa quan địa phương và dân sở tại, Quốc triều hình luật quy định “Các quan ty ở trấn ngoài mà lấy đàn bà con gái ở trong hạt mình, thì xử phạt 70 trượng, biếm ba tư và bãi chức” (Điều 316); hay theo Điều 334 thì quan lại ở biên trấn kết thông gia với tù trưởng ở vùng đó sẽ phải “tội đồ hay lưu”.
Luật hồi tỵ thời Lê Thánh Tông còn được thực thi nghiêm ngặt trong các kỳ thi hương, thi hội và áp dụng cả ở cấp xã. Năm 1488, nhà Vua xuống chiếu: “Từ nay, các quan phủ, huyện, châu xét đặt xã trưởng, hễ là anh em ruột, anh em con chú con bác và bác cháu, cậu cháu với nhau thì cho một người làm xã trưởng, không được cho cả hai cùng làm để trừ mối tệ bè phái hùa nhau”. Biện pháp này có tác dụng ngăn chặn tệ lợi dụng quan hệ thân tộc, vây bè kéo cánh cả về phía họ ngoại và thông gia trong việc nắm giữ các chức danh trong bộ máy hành chính nhằm thao túng làng xã.
d. Chế độ giám sát, quản lý quan lại
Việc quản lý và kiểm tra, giám sát quan lại được thực hiện thường xuyên hoặc bất thường nhằm phát hiện, ngăn chặn những sai lầm, tội lỗi do những người có chức, có quyền gây ra. Công tác kiểm tra, giám sát trong việc thực hiện bố trí, sử dụng quan lại rất được Lê Thánh Tông coi trọng, quy định rất chặt chẽ như:“Trưởng quan các nha môn cần lựa thải thì phải công bằng sáng suốt, không được theo sự ưa ghét riêng của mình… Nếu xét người hay dở mà sai sự thực thì Lục khoa, Ngự sử đài, Hiến ty kiểm xét hoặc tâu để trị tội” (lệnh lựa thải quan viên năm 1478); “Lại bộ và quan các nha môn trong ngoài, nên theo đúng lệ mà làm để khuyến khích mọi người. Nếu dám nhu nhơ bỏ phép như trước, thì khoa phụ trách kiểm xét nêu lên, theo luật mà trị tội”.
e. Chế độ luân chuyển quan lại
Đến đời vua Lê Thánh Tông, hoạt động luân chuyển quan lại diễn ra dồn dập, có quy mô rõ rệt. Nhiều công thần khai quốc vốn bị tước hết quyền lực ở các triều trước được bổ dụng trở lại. Một số quan lại cao cấp ở Trung ương được điều động lên biên giới do có những hoạt động lấn đất của nhà Minh. Những quan lại địa phương nếu trông coi chính sự tốt, có tài năng thì được điều động về Trung ương. Việc luân chuyển quan lại không chỉ thể hiện rõ rệt trong việc điều động quan cai trị từ Trung ương về địa phương, từ địa phương về Trung ương, mà còn có sự điều động giữa các địa phương với nhau, ở tất cả các vị trí, dù là quan to hay quan nhỏ.
Năm 1467, Lê Thánh Tông quy định “người nhận chức ở tại nơi biên giới xa phải đủ 9 năm mới được đổi về các huyện dưới kinh”.
f. Lệ giản thải
Quan lại nếu không đáp ứng được nhu cầu của Nhà nước, hoặc bất tài đều bị bãi. Lệ thải quan viên ban bố vào năm 1478 chỉ rõ, quan viên nếu “hèn kém... không làm nổi việc” thì “đều bắt phải nghỉ việc” và chọn người “có tài năng, kiến thức, quen thạo việc mà bổ vào thay”. Khi thấy bộ máy quan lại phình to, tốn kém, Lê Thánh Tông chủ trương “Quan viên quá nhiều, tiêu phí lộc kho, Lục khoa phải tra xét từ năm Quang Thuận thứ 2 đến nay, quan viên nào phạm các tội hối lộ, đã bị xử các tội biếm, giáng… mà người ấy hãy còn tại chức thì bắt phải thôi việc, để triệt những quan tham nhũng”.
Lê Thánh Tông thực hiện chế độ nghỉ việc đối với quan lại lớn tuổi, thể hiện trong sắc chỉ ngay từ năm thứ ba sau khi lên ngôi “các quan viên văn võ làm việc đến 65 muốn nghỉ việc, các lại điển, giám sinh, nho sinh, sinh đồ tuổi từ 60 trở lên muốn về làm dân, thì đều cho người đó nộp đơn ở Lại bộ”.
Tóm lại, dưới thời Lê Thánh Tông chính sách đào tạo và sử dụng quan lại đã phát triển đến đỉnh cao bằng hệ thống luật pháp, được thực hiện thường xuyên, nghiêm túc trong phạm vi toàn quốc. Tuy có quyền hành tối cao nhưng Vua không lạm quyền, áp đặt ý chí chủ quan trong xây dựng đội ngũ quan lại. Việc phát hiện, đánh giá, đào tạo, tuyển chọn, bố trí, quản lý, kiểm tra, giám sát quan lại được thực hiện một cách khách quan, minh bạch. Nhờ đó, Nhà nước thời Lê Thánh Tông đã xây dựng được đội ngũ quan lại có phẩm chất và năng lực, làm việc hiệu quả và tích cực ngăn ngừa nạn cát cứ, bè cánh địa phương. Họ thực sự là những người tài giỏi, tận tâm giúp Vua trụ vững ở ngôi báu suốt 38 năm, góp phần quan trọng xây dựng đất nước Đại Việt cường thịnh.
6. Ý nghĩa của chính sách đào tạo, sử dụng quan lại thời Lê Thánh Tông
- Thời Lê Thánh Tông, đối tượng đào tạo quan lại được mở rộng theo hướng đa dạng hoá nhằm thu hút và chọn lọc được những người ưu tú nhất trong xã hội có thể đảm đương được các chức vụ tương ứng, đáp ứng tham vọng của triều đình trong việc xây dựng hệ thống quyền lực mạnh mẽ, có năng lực và hoạt động hiệu quả. Việc công khai các quy định, thể lệ trong việc tổ chức thi cử và tuyển bổ quan lại tạo điều kiện cho giới nho sĩ cả nước không phân biệt giàu nghèo đều được quyền tham gia ứng thí. Người học ở trường công hay trường tư, ở Trung ương hay địa phương đều bình đẳng, có cơ hội đem hết tài trí của mình ra để thi thố. Về cơ bản, xét một cách tổng thể, đã tạo ra môi trường công bằng, khách quan để mọi người phấn đấu. Con em tầng lớp bình dân lương thiện nếu có chí, có tài đều có hy vọng lập được công danh sự nghiệp mà trước đó chỉ có thể dành riêng cho tầng lớp quí tộc mà thôi. Đào tạo và sử dụng quan lại có mối quan hệ chặt chẽ khăng khít với nhau trong một quy trình thống nhất. Do đó, đối với những người đã làm quan, vẫn phải tự đào tạo để trau dồi kiến thức và có cơ hội tham gia các kỳ thi để có thể được bổ nhiệm giữ chức vụ cao hơn. Điều này đã khuyến khích đội ngũ quan lại không ngừng nâng cao trình độ của mình và thu hút được nhiều nhân tài tham gia vào bộ máy Nhà nước.
Về nội dung đào tạo, chương trình học và thi tại các kỳ thi hương và thi hội ở thời Lê Thánh Tông, chúng ta thấy rõ sự định hướng của Triều đình trong việc đào tạo đội ngũ quan lại. Đó là những con người có năng lực và tri thức, biết thừa hành ứng phó trong việc cai trị dân chúng và thực hiện các nhiệm vụ được giao. Người đó phải thông thuộc tất cả những nguyên lý của Nho giáo được đề ra trong các kinh sách làm định hướng chỉ đạo mọi công việc của mình. Người đó phải có năng lực hiểu và tạo được các văn bản hành chính thường dùng trong giới quan trường như chiếu (lời Vua ban truyền), chế (lời Vua phong thưởng), biểu (lời bề tôi dâng lên Vua). Thơ phú là bước đầu thể hiện sự sáng tạo văn học của các Nho sinh. Còn văn sách là bài nghị luận bày tỏ ý kiến của riêng mình đối với các vấn đề thời sự, chính sách trị nước, kinh bang tế thế. Trong các đề thi, mà thường thì nhà Vua đích thân ra đề, ta thấy toát lên tinh thần trên thông qua các chủ đề sau: “Đế vương trị thiên hạ” (các kỳ thi năm 1466, 1472, 1478); “Đạo trị nước của các bậc đế vương” (năm 1463); “Đạo trị nước” (năm 1487, 1496); “Chỗ dị đồng của kinh sử, tài thao lược của tướng soái” (năm 1475); “Triều Tống dùng nho sĩ” (năm 1484). Yêu cầu của Nhà nước quân chủ Nho giáo đối với đội ngũ quan lại chính là vấn đề “trị nước yên dân”. Người nho sinh giỏi sau này hứa hẹn trở thành những viên quan cai trị giỏi thường có những vần điệu ý kiến độc đáo ở hai bài thơ phú và văn sách này.
- Để thực hiện mục tiêu phát triển nền giáo dục khoa cử Nho học, Lê Thánh Tông rất đề cao vai trò của đội ngũ “học quan” cũng như những người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy trong các viện, trường học, quy định tiêu chuẩn cụ thể và tổ chức thi để lựa chọn. Đối với những người đỗ khoa thi tiến sĩ nếu bố trí ở Hàn lâm viện sẽ được ưu ái gia thêm một cấp so với các vị trí công tác ở địa phương.
Từ đó cho thấy, muốn nâng cao chất lượng đào tạo, nhất là đào tạo, bồi dưỡng cán bộ các cấp, trong đó tập trung vào đối tượng cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ dự nguồn thì trước hết cần nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, giảng viên trong các trường, học viện thuộc hệ thống đào tạo lý luận chính trị - hành chính của Đảng, các đoàn thể cũng như hệ thống giáo dục đại học, đào tạo nghề và giáo dục phổ thông.
Dưới thời Vua Lê Thánh Tông, bên cạnh những người “làm công tác giáo dục chuyên nghiệp, thường xuyên”, trong các kỳ thi tuyển, Nhà nước đều lựa chọn các vị quan có chức vụ từ thượng thư trở xuống ở các bộ, Hàn lâm viện, Ngự sử đài và các quan địa phương tham gia làm đề điệu, giám thí, độc quyển và các cương vị khác như đằng lục, đối độc,…. Một số quan còn được giao chức vụ kiêm nhiệm, tham gia vào việc giảng dạy cho các hoàng tử, con em tôn thất và tổ chức cả việc “lên lớp” cho các quan.
Ngoài ra, để khuyến khích tinh thần hiếu học, Nhà nước còn quy định những người đi học ngoài việc không phải đi lính còn được ưu ái không phải nộp thuế; giám sinh Quốc Tử Giám ngoài việc được ban phát sách công phục vụ việc học tập còn được chế độ học bổng theo ba hạng thượng xá sinh, trung xá sinh và hạ xá sinh.
- Để bố trí, sử dụng con người vào trong bộ máy làm việc thì trước hết cần phải xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, bộ phận trong hệ thống tổ chức gắn liền với chức trách, nhiệm vụ của mỗi vị trí trong hệ thống đó. Điều này đã được Lê Thánh Tông đặt nên hàng đầu khi ban hành Hoàng triều quan chế: “Nhân được thời mà ra trị nước, tất phải đặt quan phân chức, xây dựng kỷ cương, để định rõ chế độ cho một đời”. Sách Lê triều quan chế đã ghi chép những quy định chặt chẽ của Lê Thánh Tông trong quá trình “đặt quan phân chức” từ việc sắp xếp cụ thể thứ bậc các cơ quan và các chức quan trong hệ thống bộ máy từ Trung ương đến địa phương, xác định phẩm trật và số lượng người đảm nhiệm theo từng chức vụ, số nha lại của từng nha môn… Với phương châm “công việc liên lạc ràng buộc lẫn nhau” nhằm mục đích “trách nhiệm lại quy đến nơi”. Trong các bài chiếu, lệnh, sắc dụ của nhà Vua về việc tuyển dụng và bố trí quan lại cũng đều nêu rõ những tiêu chuẩn về năng lực, tư cách cùng kết quả quá trình làm việc như Tham nghị thì dùng “quan từ lục phẩm trở lên, có tài năng kiến thức và uy tín, nhậm chức đủ 4 lần khảo khoá trở lên”, Hiến sát thì dùng “quan các nha môn, khoa đài, Quốc tử giám, Lục tự mà thanh liêm, sáng suốt, từng trải đủ 4 lần khảo khoá trở lên được mọi người suy tôn ca ngợi, theo lệ mà tuyển bổ”; “ai là người vừa cứng cỏi, vừa mềm dẻo, có tài xử án xét kiện” thì đặt mỗi hình ty lấy 3 viên ngoại (1468), “những điển lại nào thanh liêm, cần mẫn thì được thăng bổ chức phó nhị” (1472), “có học thức, có uy tín, tài cán, liêm khiết, siêng năng” (bảo tuyển quan Tổng binh năm 1487), “liêm khiết, từng trải, am hiểu hình danh” (lệnh bảo cử ty quan của Hình bộ năm 1489), “có tài năng, tri thức, liêm khiết, giỏi giang, siêng năng, mẫn cán mới cho tại chức” (sắc chỉ về lựa chọn tướng hiệu các nha môn năm 1496)…
Cùng với việc xây dựng tiêu chuẩn chức danh, cần tiếp tục đổi mới công tác đánh giá cán bộ mà trước đây trong thời Lê Thánh Tông, Nhà nước phong kiến đã tiến hành rất nghiêm túc, bài bản thông qua chế độ khảo khoá định kỳ 3 năm, 6 năm, 9 năm cũng như khảo công hằng năm. Việc xét duyệt công trạng, thành tích quan lại, thường tập trung vào các tiêu chuẩn: không mắc lỗi hay có mắc lỗi, siêng năng hay lười biếng (trong việc thuế má thì đó là trưng thu đủ hay thiếu), thanh liêm hay nhũng lạm, thương dân hay hà khắc (do hiện tượng dân bằng lòng hay kêu ca).
Ngự sử đài và Bộ Lại thường dựa vào một số dẫn liệu cụ thể như: số vụ kiện tụng hay số vụ kiện phải sửa lại trong hạt phụ trách của quan chức đó ít hay nhiều, số dân trong hạt xiêu tán (bỏ trốn) ít hay nhiều để xét duyệt thành tích quan lại. Việc xếp loại quan chức trên những tiêu chí như thế, được tiến hành từng năm một, sau kỳ hạn 3 năm, sẽ phân loại quan chức tổng hợp thành ba bậc: thượng (tốt), trung (bình thường) và hạ (kém). Căn cứ vào đó, Triều đình quyết định các hình thức khen thưởng và kỷ luật đối với từng hạng quan chức: thăng chức, thưởng tiền, giáng chức, thuyên chuyển, bắt về hưu, thải hồi.
Phương thức đánh giá quan lại của vương triều Lê Thánh Tông được thực hiện kết hợp chế độ khảo khóa định kỳ và kiểm tra, giám sát một cách thường xuyên hoặc đột xuất khi có dấu hiệu vi phạm. Tiêu chuẩn, nội dung đánh giá chủ yếu nhằm vào mức độ hoàn thành công việc, song lại không bỏ qua tư cách đạo đức. Nghĩa là, việc đánh giá quan lại mặc dù bằng hình thức nào cũng không thể bỏ qua đức tài của họ đã thể hiện trong công việc, sinh hoạt. Đây chính là một nguyên tắc, một bài học quý của dân tộc truyền lại cho chúng ta ngày nay.
Cùng với việc củng cố, nâng cao chất lượng đội ngũ quan lại, công tác quản lý, giám sát, kiểm soát và ràng buộc trách nhiệm các quan được Lê Thánh Tông hết sức chú trọng. Trong lục bộ, có riêng một bộ (Bộ Lại) coi về công tác nhân sự, sắp xếp, bổ dụng, cân nhắc, kỷ luật các quan chức. Ngoài ra, còn có hệ thống lục khoa với chức năng xét duyệt và đàn hặc những việc làm của lục bộ. Công tác quản lý, thanh tra và giám sát quan lại được thực hiện ở một số khâu chính là quản lý lý lịch, quản lý kỷ luật, quản lý thành tích công tác và tinh thần trách nhiệm của quan lại cũng như thực hiện các hình thức khen thưởng và kỷ luật đối với quan lại.
Điều dễ thấy nhất là ở Bộ Lại đảm trách việc tuyển bổ, thăng giáng và bãi miễn các chức quan từ tam phẩm trở xuống nhưng không được toàn quyền như ở các triều đại trước mà phải có sự phối hợp với các cơ quan ở Trung ương và địa phương cũng như chịu sự giám sát, “bắt bẻ, tố giác” của Lại Khoa.
Nhà nước thi hành chính sách ưu đãi đối với những người làm quan, bảo vệ uy tín của họ đối với dân chúng, chính là nhằm củng cố một lực lượng phục vụ đắc lực nhằm mục đích duy trì hiệu lực của bộ máy nhà nước. Đồng thời, Triều đình cũng rất chú ý đến việc quản lý, giám sát quan lại, ban hành những chế độ, quy định tỉ mỉ đến công tác tổ chức, nhân sự của tầng lớp này. Trong quan hệ đối với dân chúng, quan lại là người đại diện của Triều đình, tập trung trong tay mình những quyền lực rất lớn cả về lập pháp, hành pháp lẫn tư pháp, từ đó có nguy cơ dẫn đến tệ lạm quyền. Nhưng trong bộ máy nhà nước và quan hệ giữa các đồng nghiệp, họ lại bị ràng buộc và kiểm soát một cách rất chặt chẽ. Do đó, công việc và hành vi của quan lại trong bộ máy nhà nước quân chủ trên thực tế luôn luôn bị giám sát bởi các cơ quan chuyên trách, bởi cấp trên và các đồng sự. Sự ràng buộc lẫn nhau đó đã phần nào có tác dụng hạn chế tình trạng lạm quyền, vi phạm pháp luật trong đội ngũ quan lại.
7. Một vài kết luận
Thế kỷ XV là thế kỷ hình thành, xây dựng và phát triển của Nhà nước Lê Sơ, được xem là đỉnh cao phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam. Đại Việt nửa cuối thế kỷ XV giành được nhiều thành tựu to lớn, từ việc giữ vững nền độc lập, tự chủ và mở rộng bờ cõi đến việc xây dựng, phát triển đất nước mạnh mẽ, toàn diện trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Có được những kết quả đó, một phần quan trọng là nhờ đóng góp của đội ngũ quan lại đương thời, đó là kết quả tất yếu từ chính sách đào tạo và sử dụng quan lại dưới thời Lê Thánh Tông.
Thông qua việc nghiên cứu chính sách đào tạo và sử dụng quan lại thời Lê Thánh Tông, chúng ta thấy có nhiều ưu điểm như: thể hiện nhãn quan chính trị sâu sắc, tầm nhìn chiến lược về vị trí, vai trò của con người chính trị trong bộ máy quyền lực Nhà nước; tính chuyên nghiệp và hệ thống trong việc hoạch định và thực thi chính sách đào tạo và sử dụng quan lại; yếu tố “mở”, tính công bằng, công khai gắn với pháp luật, kỷ cương trong đào tạo và sử dụng quan lại. Có thể nói, Lê Thánh Tông đã tạo được một đội ngũ quan lại trong bộ máy Nhà nước gồm những con người ưu tú trong giới trí thức Nho học, được chọn lọc kỹ càng làm chỗ dựa vững chắc để duy trì quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền, đảm bảo cho sự phát triển của đất nước và phục hưng dân tộc vào thế kỷ XV. Vì thế, chính sách đào tạo và sử dụng quan lại thời Lê Thánh Tông có ý nghĩa sâu sắc không chỉ đối với thực tiễn lịch sử Việt Nam đương thời mà còn có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước ngày nay của nhân dân ta.
(Nhóm biên tập Chuyên mục Từ trang sách tới cuộc sống)
|
|